Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

Đầu xuân dự hội Đền Cờn


Đền Cờn tọa lạc bên dòng sông Mai, thuộc địa phận làng Phương Cần, phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An. Lễ hội đền Cờn kéo dài từ 15 đến 20 tháng Giêng hàng năm, chính hội là ngày 21 tháng Giêng.

Người Nghệ An thường có câu “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Mã, tứ Trưng”, đó là câu nói chỉ bốn ngôi đền thiêng ở Nghệ An, trong đó đền Cờn được xếp vào loại thiêng nhất. Đây là ngôi đền có nền tảng lịch sử lâu đời với nhiều truyền thuyết được truyền miệng đến ngày nay thu hút đông đảo du khách du lịch Nghệ An.

Từ truyền thuyết đến lịch sử

Đền Cờn thờ Tứ vị Thánh Nương, một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ biến ở Nghệ An và Thanh Hóa. Về tục thờ Tứ vị Thánh Nương ở đây có rất nhiều truyền thuyết về các Bà, tuy nhiên phố biến có một truyền thuyết như sau: “Các Thánh nương là ba mẹ con Công chúa nước Nam Tống là Thái hậu Dương Nguyệt Quả, hai Công chúa Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu Nguyệt Hương và bà nhũ mẫu. Năm Thiệu Bảo thứ nhất (1229), quân Nguyên đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu trung thần nhà Nam Tống đưa vua Đế Bính, gia quyến cùng binh sỹ hơn 800 người lên thuyền ra biển chạy trốn, bị quân Nguyên truy sát gấp rút lại gặp sóng to gió lớn, vua tôi Nam Tống chết chìm ở biển Đông. Thi thể 3 mẹ con Công chúa trôi dạt vào cửa Tráp (cửa Càn). Dân làng Càn thấy thi thể những phụ nữ chết đuối nhưng mặt mũi hồng tươi, xiêm y quý tộc, đặc biệt tỏa ra mùi thơm như lan như quế nên lấy làm lạ, bèn chôn cất và lập miếu thờ, sau đó mỗi khi ra khơi đến cầu khẩn đều thấy linh nghiệm”

Từ truyền thuyết đó, đối chiếu với lịch sử Việt Nam cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép về sự kiện này như sau “Kỷ Mão Thiên Bảo năm thứ 1 (1279), quân Nguyên đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn, quân Tống thua, Tả thừa Tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống biển chết; Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày xác nổi lên mặt biển đến hơn 10 vạn người. Xác vua Tống cũng ở đấy”. 

Nghi thức hành lễ ở Đền Cờn

Không những được dựng nên từ những truyền thuyết, ngôi đền có lịch sử hình thành được các sử gia ghi chép lại trong những bộ sử lớn như sau. Theo Đại Việt sử ký toàn thư đền Cờn được xây dựng vào năm 1312, một năm sau khi hoàng đế Trần Anh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành (1311). Trong chuyến hành quân, trên đường đi nhà vua đã dừng đoàn chiến thuyền tại cửa Càn (nay là cửa Cờn). Nửa đêm chiêm bao thấy có thần nữ khóc và nói: “thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp sóng to chết đuối trôi dạt đến đây, thượng đế phong cho làm thần biển đã lâu, nay thấy bệ hạ đem quân đi thiếp xin giúp đỡ lập công. Khi thức dậy vua cho gọi các cố lão ở đấy hỏi sự thực, ban tế một tuần rồi đi, thì thấy biển không nổi sóng, tiến thẳng đến thành Chà Bàn, bắt được vua Chiêm đem về. Đến nay sai hữu ty lập đền, tuế thờ cúng tế”(3). Sau khi chiến thắng trở về nhằm ghi nhớ công đức của các vị thánh nương nên “năm 1312 vua sai lập đền thờ ở cửa biển Cần Hải (nguyên trước là Càn Hải vì tránh tên húy nên đổi lại thành Cần Hải) Cửa Cờn ngày nay”(4). 

Năm Hồng Đức thứ nhất 1470, Vua Lê Thánh Tông đích thân mang quân đánh dẹp phương Nam, cũng dừng lại cảng Xước nghỉ ngơi chỉnh đốn binh lực và vào đền tế lễ. Sau khi thắng trận, vua tôi kéo quân định tiến thẳng Thăng Long nhưng thuyền của Vua vừa ra đến cửa biển thì gió đông bắc nổi lên, đoàn thuyền phải vào cửa Cờn dưới chân đền trú gió. Lê Thánh Tông lấy làm lạ bèn ban thêm phẩm vật, cho tạc tượng dựng thêm mấy tòa đền và làm thơ ngự chế.

Kiến trúc ngôi đền

Đền Cờn có quy mô kiến trúc khá đồ sộ, thời gian và bom đạn 2 cuộc kháng chiến đã hủy hoại nhiều công trình. Hiện tại chỉ còn nhà ca vũ và 3 gian 2 hồi dài 17,4m, rộng 9,6 m, vì kèo giá chiêng chồng dường, rui lát bản, toàn bộ các chi tiết gỗ được sơn. Hầu hết các chi tiết gỗ của bộ khung nhà đều được chạm lộng hoặc bong kênh các đồ án trang trí: tứ linh, tứ quý... Đường nét chạm khắc đá tinh tế, lúc mềm mại uyển chuyển, lúc rắn rỏi khỏe mạnh. Các con vật lúc ẩn, lúc hiện, lúc thể hiện duyên dáng, khi cách điệu giữ dằn. Có thể nói, bộ khung nhà là một sưu tập tác phẩm điêu khắc gỗ thời Lê còn lại trên đất huyện Quỳnh Lưu. Đặc biệt trong đền còn lưu giữ 142 hiện vật quý hiếm. Ngoài các loại bằng sắc, câu đối, đại tự, các đồ tế khí: kiệu, tàn lọng, đồ ngà, đồng... còn có bia đá 2 mặt cao 1,6 m, rộng 1,2m dựng năm 1665. Chuông đồng đúc năm Cảnh Hưng (1752) nặng 300 kg. Bia và chuông còn là hiện vật chứng tích chiến tranh của đế quốc Mỹ. Đền Cờn có 28 pho tượng đá thời Lê, một sưu tập tượng đá phong phú về loại hình về tượng người, con giống có kích thước khá lớn.

Đến lễ hội truyền thống

Theo Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, Hội chính đền Cờn diễn ra từ ngày 15 đến 21 tháng Giêng, tuy nhiên ngày nay chính hội diễn ra vào ngày 21 tháng Giêng. Mặc dù vậy, công cuộc chuẩn bị tập duyệt đã được nhân dân tiến hành từ những ngày đầu tháng Giêng.

Ngày mồng 6 tháng Giêng làng tiến hành cuộc tế xuân đầu tiên để chuẩn bị cho vào hội chính thức. Cuộc tế diễn ra rất linh đình với đồ tế là “lợn bồi trâu” tức là 5 con trâu thịt bỏ ruột, 5 con lợn cũng bỏ ruột được đặt trên lưng 5 con trâu. Sáng ngày 7 tháng Giêng, tiến hành tế bánh dầy, bánh được làm to, cao, hết rất nhiều gạo. Mỗi giáp đều phải làm bốn chiếc “bánh giống”, bánh này được đem ra đền thờ các vị thánh, sau đó chia cho ông trưởng giáp 2 chiếc, 2 chiếc còn lại đem chia cho bà con trong giáp. 


Một trong các nghi lễ hội Đền Cờn

Sau hai ngày tế bánh là thời gian của các trai làng đi mừng, tức là chia thành từng nhóm đi quyên tiền bạc, vật chất của bà con trong làng, không khí sôi nổi của lễ hội kéo dài cho đến ngày rằm tháng Giêng. Ngày 15 tháng giêng làm lễ “nghiềm quân”, tức là rước tất cả đồ thờ cúng như kiệu, tàn, lọng, chấp kích… ra để kiểm điểm lại xem thiếu hụt, hỏng như thế nào. Mọi thứ được bày biện, lắp ráp, lau chùi bóng loáng, cờ quạt được treo lên, xếp theo hàng lối rực rỡ cả một khu đền. Ngày 16 tháng Giêng người dân tổ chức rước một kiệu có 4 tàn vàng che, lên chùa thăm sư ông, tượng trưng như thánh lên chùa vấn an Phật. Ngày 17 tháng Giêng rước một kiệu, được các nữ đảm trách có tám tàn che và các đồ thờ khác đặt ở ngoài chợ cùng du khách du lịch Cửa Lò

Trong suốt ba ngày ba đêm 17, 18, 19 tháng Giêng làng tổ chức hát bội rất đông vui, mỗi ngày kiệu được một hoặc hai phường bán hàng ở chợ ủng hộ hương, đăng, trầu, rượu. Thậm chí họ còn có thể lo cả tối vui của cả ngày hôm đó, cho nên vào những ngày này cả khu vực chợ là một sân khấu hội rất lớn và đông vui không kể xiết. Tất cả diễn ra vui vẻ cho đến ngày 20 tháng Giêng. Các kiệu cùng nghi trượng được rước tập trung vào ngày 20 tháng Giêng, chờ ở đây để chuẩn bị chạy Ói, đây là một hình thức trượng trưng để diễn tả lại sự tích “hai làng tranh nhau bài vị”. 

Đua thuyeef trên sông Mai

Sáng ngày 21 tháng Giêng, mọi thủ tục đã tiến hành xong. Trong đền tiếp tục tế lễ. Các trò vui hôm trước diễn ra chủ yếu ngoài chợ thì nay dồn vào đền, mà nổi bật là đua thuyền trên dòng sông Mai trước đền. Ngoài đua thuyền còn có những trò chơi khác như đánh đu, đấu vật, cờ người… thu hút sự quan tâm của đông đảo du khách du lich Sam Son

Lễ hội kết thúc trong không khí tưng bừng của mùa xuân, báo hiệu một năm mới an lành hạnh phúc, cầu cho một năm ra khơi bình an với tôm cá đầy khoang.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét