Thứ Tư, 31 tháng 1, 2018

Đầu năm đi lễ đền Bà Chúa Kho

Đền Bà Chúa Kho được giới buôn bán làm ăn đặc biệt hay lui tới. Nhiều người bảo đền linh thiêng lắm; cầu xin ắt được như ý. Quanh năm đền đông khách tour lễ hội 2018 vào ra thắp hương xin lộc; thành tâm cúng bái.

Trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, hiếm có ngôi đền nhỏ nào lại thu hút được nhiều khách thập phương, đặc biệt là giới kinh doanh, buôn bán như Đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh.

1. Tìm hiểu về di tích Đền Bà Chúa Kho

Đền Bà Chúa Kho thuộc khu phố Cổ Mễ; phường Vũ Ninh; thành phố Bắc Ninh; nằm trên lưng chừng núi Kho và sát con sông Cầu thơ mộng (xưa có tên là Như Nguyệt) đầy ắp những truyền thuyết lịch sử của dân tộc; từ lâu đời đã đi vào tín ngưỡng dân gian và gần đây nổi tiếng là tâm điểm hành hương tâm linh của nhân dân cả nước hướng về để cầu may; sống hướng thiện.


Đây không chỉ là khu di tích lịch sử có giá trị nằm trong quần thể di tích của khu Cô Mễ (gồm: Đình – Chùa – Đền) mà còn là nơi hàng năm nhân dân khắp cả nước hành hương mang tính tín ngưỡng. Ngay sau di tích đền Bà Chúa Kho là thờ Bà Chúa vẫn còn một đường hầm có kết cấu hình mái vòm nằm lùi sâu trong chân núi, chỗ cao nhất của đường hầm là gần 2m, đào xuyên qua lòng núi Kho để đi ra phía sông Cầu, cửa hầm phía này rất khó bị phát hiện. Các bô lão nhiều đời đều nói đường hầm do Bà Chúa Kho xây dựng.

2. Sự tích đền Bà Chúa Kho – Bắc Ninh

Trong các vị thần linh của tín ngưỡng người Việt, hình tượng Bà Chúa Kho rất độc đáo. Bà vừa là một nhân vật huyền thoại, vừa là một nhân vật lịch sử. Việc suy tôn Bà chúa kho có sự hội tụ của truyền thống sùng bái nữ thần và sự tôn vinh người anh hùng có công khai phá đất đai, gây dựng cộng đồng, hy sinh tính mạng để bảo vệ đất nước. Ở nước ta có 3 Bà Chúa Kho được phong Phúc Thần, đó là Bà Chúa Kho ở Nam Định, Bà Chúa Kho ở Giảng Võ (Hà Nội), và nổi tiếng nhất là Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh.

Bà Chúa Kho là một người phụ nữ có nhan sắc, lại khéo trong việc tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực. Bà là người trông nom kho tàng quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt do vua Lý Thường Kiệt lãnh đạo. Bà chính là người đã chiêu dân lập ấp ở các vùng: Quả Cảm, Cô Mễ, Thượng Ðồng và giúp người dân khai khẩn đất đai nông nghiệp để phục vụ cuộc sống.

3. Lễ hội tại Đền và ý nghĩa 

Sự tích đền Bà Chúa Kho còn gắn liền với lịch sử triều đại nhà Lý. Sau này bà trở thành hoàng hậu trong triều đại nhà Lý, bà giúp nhà vua trong việc giữ gìn kho lương kinh bang đất nước. Tuy nhiên, bà bị giặc sát hại trong lúc phát lương cứu giúp dân làng Cô Mễ. Cảm kích tấm lòng bao dung lương thiện của bà, nhà vua đã phong cho bà danh hiệu Phúc Thần. Người dân Cô Mễ nhớ ơn và lập đền Bà Chúa Kho tại vị trí kho lương cũ trên Núi Kho tỉnh Bắc Ninh.


Lễ hội đền Bà Chúa Kho được diễn ra vào ngày 14 tháng giêng, đền mang tên Bà Chúa Kho chính thức khai hội. Chính hội đền Bà Chúa Kho vào ngày 14 tháng Giêng, nhưng ngay từ những ngày đầu xuân năm mới, kéo dài trong cả tháng Giêng thì dòng người lại đổ về đi lễ đền Bà Chúa Kho nườm nượp.

Trong ngày khai hội đền Bà Chúa Kho có rất nhiều người đến đền cầu tài, cầu lộc. Có người cầu an, cầu lộc, nhưng hầu hết là các tiểu thương và thương gia đến để “vay vốn” Bà Chúa Kho với mong muốn có một năm vốn liếng dồi dào, làm ăn thuận lợi, phát đạt… Nghi thức “vay vốn” cũng rất rõ ràng, người ta ghi trong sớ là vay bao nhiêu, làm gì, và bao lâu sẽ trả. Thậm chí có người còn hứa là vay 1 trả 3, trả 10… với quan niệm đã vay thì phải trả, nên dù có làm ăn tốt hay không, người ta vẫn giữ đúng lời hứa, tức là tạ lễ cuối năm ở đền.

Sắm lễ đi đền Bà Chúa Kho gồm những gì ? Trong dịp lễ hội, xung quanh đền có hàng trăm cửa hàng bán đồ cúng tế, đông đúc người vào ra. Mâm lễ được khách hành hương mua sắm tùy tâm, khi đơn giản là thẻ hương, bông hoa với vài ba tập tiền âm phủ, cầu kỳ thì con gà đĩa xôi, hay một mâm ngũ quả đủ đầy… chủ yếu là thành tâm cầu khấn.

5 ngôi chùa linh thiêng nên ghé dịp đầu năm

Mỗi khi Tết đến xuân về là dịp các gia đình đi chùa cầu cho một năm mới an lành, may mắn. Dưới đây là 5 ngôi chùa linh thiêng nhất miền Bắc nên đến trong dịp Tết Âm lịch.

1. Phủ Tây Hồ (Hà Nội) - cầu tài lộc

Phủ Tây Hồ được coi là một trong những chốn linh thiêng nhất trong hệ thống đình chùa của Hà Nội. Không chỉ những người dân Hà Nội, mà đa số du khách khắp nơi khi đến thăm Hà Nội thì đều đến thắp hương cầu phúc ở Phủ Tây Hồ.


Phủ Tây Hồ nằm trên một bán đảo nhô ra giữa Hồ Tây, trước là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía đông của Hồ Tây. Ở ngay đầu làng có một ngôi đền thờ bà chúa Liễu Hạnh, một người đàn bà tài hoa, giỏi đàn ca, thơ phú, đức độ nên đã được dân gian thần thánh hoá tôn làm Thánh Mẫu (Thánh Mẹ).

Hàng năm cứ sau thời khắc giao thừa, khách hành hương về đây rất đông, vừa đi lễ Mẫu ban cho điều lành và mọi sự may mắn, vừa đi thưởng ngoạn cảnh đẹp Hồ Tây. Phủ Tây Hồ được coi là một trong những chốn linh thiêng nhất trong hệ thống đình chùa của Hà Nội. Không chỉ những người dân Hà Nội, mà đa số du khách khắp nơi khi đến thăm Hà Nội thì đều đến thắp hương cầu phúc ở Phủ Tây Hồ.

Nếu gia đình bạn đang muốn tìm một địa điểm vừa có thể du lịch, vừa có thể cầu lộc, cầu tài thì không nên bỏ qua chốn linh thiêng bậc nhất Hà Thành này.

2. Đền Trần ( Nam Định) – xin ấn

Cứ ngày 14 tháng riêng âm lịch hàng năm, Nam Định tổ chức lễ khai ấn Đền Trần, nơi thờ các vị vua đời Trần.


Dù chỉ đêm 14 tháng Giêng mới khai ấn đền Trần nhưng mới mùng 7, mùng 8 Tết, phủ Thiên Trường Nam Định đã tấp nập du khách tour du xuân 2018 thắp hương, vãn cảnh đầu xuân. Vài năm trở lại đây, ngày càng nhiều người đổ về khu di tích Đền Trần, Nam Định xin ấn để cầu tài, cầu lộc, vạn sự như ý.Đền Trần (Trần Miếu) thuộc Tức Mặc, phường Lộc Vượng, Mỹ Lộc, Nam Định. Đền Trần là công trình thờ tự có từ lâu đời, thờ 14 vị vua triều Trần. Khai ấn đầu năm là một hoạt động văn hoá mang đậm dấu ấn của triều đại phong kiến nước ta. Thế nên, dù Đền Trần có hơn hai chục ngày lễ nhưng Lễ khai ấn là đại lễ được mong đợi nhất trong năm. Theo tương truyền, ấn chỉ linh thiêng khi được lấy đúng vào 23 - 24h của ngày 14 tháng giêng. Vì vậy hàng vạn, hàng triệu người khắp nơi đổ về Đền Trần chen chúc, xô đẩy nhau cũng chỉ mong xin được ấn vào thời khắc thiêng liêng ấy.

Để xin được ấn vua ban lúc nửa đêm, người ta phải xếp hàng, xin thẻ từ trước đó rất lâu, hoặc đến thời điểm khai ấn.

Loại này được đóng trên giấy điệp vàng là dành cho "thường dân". Còn có một loại ấn được đóng trên tấm lụa đỏ, loại này chỉ có rất ít, và chỉ dành cho các quan chức cấp tỉnh, Trung ương về dự.

Cứ 10 khắc trên lụa đỏ chỉ có 1 tấm duy nhất là có giá trị vì được cắt ra từ tấm áo hoàng bào của các đời vua. Và nếu ai may mắn được tấm lụa đó thì coi như đã đắc lộc, đắc thọ.

3. Chùa Hương (Hà Nội ) – Cầu bình an

Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật tử cùng tao nhân mặc khách khắp 4 phương lại nô nức du lịch chùa Hương. Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật. Ngày mồng sáu tháng giêng là ngày khai hội.


Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch.

Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.

4. Đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh) – Xin lộc rơi lộc vãi

Đền Bà Chúa Kho nằm trên lưng chừng ngọn núi Kho, tại khu Cô Mễ, xã Vũ Ninh, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Đây không chỉ là khu di tích lịch sử có giá trị nằm trong quần thể di tích của khu Cổ Mễ (gồm: Đình – Chùa – Đền) mà còn là nơi hàng năm nhân dân khắp cả nước hành hương mang tính tín ngưỡng.


Đền Cổ Mễ thờ Bà Chúa Kho chính là nơi tưởng niệm một người phụ nữ Việt Nam đã khéo léo trong việc tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong thời kỳ trước và sau chiến thắng Như Nguyệt.

Vào đời nhà Lý, Bà có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh) và đã mất trong cuộc kháng chiến chống quân Tống vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077). Nhà vua thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần.

Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho.Theo dân gian truyền miệng thì, những người đi lễ đầu năm đến đền Bà Chúa Kho để vay tiền làm ăn kinh doanh trong năm mới để có được một năm kiếm thật nhiều tiền và kinh doanh thuận lợi. Các thương gia, các nhà doanh nghiệp ai cũng cố vào được cửa Bà. Bằng mọi giá, mọi cách, họ phải khấn vái và đặt lễ được trước mặt Bà. Có vậy Bà mới cho lộc, mới mở kho xuất tiền cho vay. Mọi người lên lễ Bà Chúa Kho để vay tiền hoặc xin “lộc rơi lộc vãi”.

Nếu muốn vay thì cũng được nhưng thủ tục khá rắc rối, phải qua nhiều ban bệ. Đa số mọi du khách đi đền Bà Chúa Kho chỉ lên xin lộc rơi lộc vãi, nhưng để tỏ lòng thành kính năm nào nhân dân cũng lên tạ lễ Bà đã phù hộ cho. Đi lễ Bà Chúa Kho đã trở thành thói quen đối với nhiều người, đặc biệt là giới kinh doanh.

5. Đền Bắc Lệ (Lạng Sơn) – Cầu may mắn và bình an

Nếu còn độc thân hay muốn cầu hạnh phúc gia đình, bạn hãy tìm đến đền Bắc Lệ. Dân gian vùng quê nơi đây luôn tin tưởng đây là ngôi đền cầu tình duyên thiêng nhất tại xứ Lạng cũng như trên đất nước Việt Nam. Đền Bắc Lệ Lạng Sơn thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Đây là đền thờ Mẫu điển hình ở nước ta.

Lễ hội lớn nhất trong năm được tổ chức trong vòng 3 ngày từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 9 Âm lịch. Đền Bắc Lệ nằm trên một quả đồi cao, xung quanh rợp bóng cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Đền là nơi thờ Bà Chúa Thượng Ngàn – nữ thần núi. Bà là người trông coi, cung cấp và ban phát nguồn của cải núi rừng cho con người. Ngoài ra, được suy tôn trong đền còn có Chầu Bé – một nhân vật có thật người vùng Bắc Lệ, đây chính là các cô, các cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.

Lễ hội đền Bắc Lệ bao gồm các phần lễ chính: lễ tắm ngai, lễ chính tiệc, lễ rước… Không khí của buổi lễ hòa trong tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng với những điệu nhạc và những trang phục rực rỡ sắc màu của điệu múa sanh tiền, người dân ở đây tin rằng điệu múa sẽ đem lại may mắn và bình an

Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

Chiêm bái những pho tượng tinh xảo của chùa Mía

Chùa Mía cách trung tâm Hà Nội khoảng 45 km về phía Tây. Chùa được tọa lạc tại sườn đồi thuộc thôn Đông Sàng, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.

Đường Lâm vốn là mảnh đất lịch sử đã nổi tiếng với các tên tuổi như: Phùng Hưng, Ngô Quyền, nhà đối ngoại đại tài Giang Văn Minh…Nay lại được nhiều du khách tour du xuân 2018 biết và đặt chân tới nhờ có tổ đình “Sùng Nghiêm”.


Chùa Mía được xây dựng từ xa xưa do đó đến thế kỷ XVII, Chùa bị hoang phế, hư hỏng nặng. Năm 1632, cung phi Nguyễn Thị Ngọc Dong là phi tần trong phủ Trịnh Tráng (1623 – 1657) đã đứng lên xây dựng và khuyến mộ thiện nam, tín nữ các làng Đông Sàng, Cam Thịnh, Mông Phụ…thuộc tổng Cam Giá (tức tổng Mía) cùng nhau tôn tạo lại.

Nhân dân trong vùng mến mộ uy đức của bà, đã tạc tượng đem thờ ở chùa. Người dân nơi đây tôn sùng bà là “Bà Chúa Mía”. Chùa được tu bổ nhiều lần, nhưng đến nay quy mô tôn tạo thời Bà Chúa Mía vẫn được bảo tổn nguyên vẹn. Các tòa như: Tam Quan, Chính Điện, Thượng Điện, nhà Tổ, hành lang san sát nối kề, trong ngoài bao bọc, ngang dọc đan xen, tạo dáng thành hình chữ Mục.


Điểm đặc biệt ở nơi đây là một hệ thống tượng Phật không chỉ đặc sắc về hình dáng mà còn phong phú về số lượng. Ở đây có đến 287 pho tượng thờ, trong đó có 174 tượng bằng đất nung sơn son thếp vàng, 107 tượng mộc và sáu pho tượng bằng đồng. Từ cử chỉ của ngón tay đến cách nhìn của khóe mắt, đều cho khách viếng thăm thấy được nét độc đáo phi phàm nhưng đầy từ bi hỉ xả.

Những pho tượng nổi tiếng là tác phẩm điêu khắc sinh động như: tượng Tuyết Sơn, tượng Di Lặc, tượng Bát Bộ Kim Cương… Tượng Tuyết Sơn cao 0,76m, không to lớn và nổi tiếng như tượng Tuyết Sơn ở chùa Tây Phương, nhưng cũng được điêu khắc, chạm trổ rất tinh xảo. Tám pho tượng làm bằng đất nung ở tòa thượng điện lại đặc biệt nổi bật với hình khối, bố cục vững chắc, thân hình khỏe khoắn, hài hòa, thể hiện con mắt và bàn tay tinh xảo của những nghệ nhân xưa.

Không chỉ có nhiều pho tượng Phật nghệ thuật, chùa Mía còn mang theo suốt quá trình lịch sử những hiện vật giá trị. Tầng trên Tam quan là chiếc chuông lớn đúc từ năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745) và chiếc khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ 6 (1846). Tiếp đến là tòa tháp “Cửu Phẩm Liên Hoa”. Tòa tháp này được xây dựng để thờ vọng Xá lị đức phật. Bên cạnh đó, ngọn tháp cũng được những người xây dựng gửi gắm ước muốn được gìn giữ, phát triển nét văn hóa của làng quê.


Điều đặc biệt nhất là trong chùa còn có một tấm bia đá rất đẹp, cao 1,6m; rộng 1,2m và được đặt trên lưng một con rùa. Tấm bia đá được khắc năm 1634, nói về việc trùng tu chùa năm 1632. Tại tấm bia đá này cũng lưu trữ nhiều tài liệu quý báu mang giá trị lịch sử lớn lao của ngôi chùa. Với kiến trúc độc đáo và những tác phẩm điêu khắc có giá trị, chùa Mía đã được bộ Văn hóa - thể thao và du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Về chùa Mía, du khách tour tham quan làng cổ Đường Lâm còn được thưởng thức những đặc sản dân dã nơi đây. Bởi họp ngay trước cửa tam quan của chùa Mía là khu chợ Mía nổi tiếng. Xưa kia, chợ này người buôn kẻ bán tấp nập với những sản vật phong phú, đa dạng của địa phương.

Ngày nay, chợ Mía đã được xây khang trang. Hàng chợ chủ yếu bán cho du khách thập phương những đặc sản quê như bánh tẻ, kẹo bột, tương nếp, chè lam...Chùa Mía không rộng và đông đúc khách thập phương đến viếng như chùa Tây Phương, chùa Hương hay những ngôi chùa nổi tiếng khác. Những ngày đầu xuân, ghé thăm chùa vào vẫn thấy chùa yên tĩnh, cổ kính như ngày thường. Khách viếng chùa không ồn ào, chen chúc. Khói hương không nghi ngút, thoảng trong không gian tĩnh mịch là tiếng chuông chùa văng vẳng.

Thứ Năm, 25 tháng 1, 2018

Không gian đậm chất dân gian của chùa Trăm Gian

Quảng Nghiêm tự còn được gọi bằng những cái tên giản dị, đậm chất dân gian như chùa Sở, chùa Núi, chùa Tiên Lữ… nhưng có lẽ được biết đến nhiều nhất là chùa Trăm Gian toạ lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Cách trung tâm thủ đô khoảng 20km, được xây dựng vào thế kỷ thứ XII thời Lý. Ngôi chùa có 104 gian nhà được chia thành ba cụm, là ngôi cổ tự nổi tiếng ở Việt Nam.

Hiện chùa Trăm Gian còn lưu giữ bộ sưu tập tượng gồm 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung trong đó đặc biệt quý là tượng Tuyết Sơn, tượng Quan Âm Bồ Tát và tượng Đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh nhà Tây Sơn. Ngoài ra, chùa còn có tượng thờ Đức Thánh Bối được đặt trong khám gỗ. Pho tượng này được rút cốt bằng mây đan ngoài bọc vải sơn, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông.


Chùa Trăm Gian còn có một số hiện vật thuộc loại quý hiếm. Đó là đôi rồng đá thời Trần được dùng làm lan can lên cửa chùa, có thân dài mập nhưng ghép đầu rồng thời Nguyễn. Đó là những viên gạch thời Mạc được dùng xây bệ tượng Tam thế, nhiều viên chạm chim thần và các con thú rất sinh động. Đó cũng là bộ tranh La hán và tranh Thập điện được chạm nổi có kết hợp vẽ… Trong chùa còn nhiều hoành phi, câu đối, đặc biệt là có hai câu đối được khảm trai, tương truyền là có từ thời nhà Hồ. 

Lễ hội chùa Trăm Gian được tổ chức từ ngày 4 - 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm nhằm tưởng nhớ Đức Thánh Bối. Trong lễ hội có rước kiệu thánh, thi cỗ chay và trình rối cạn; ngoài ra còn các trò vui như đánh cờ người, đấu vật, múa rối nước, đốt pháo hoa… rong những ngày hội chùa thường tổ chức nhiều cuộc vui, đặc sắc nhất là đánh cờ người được tổ chức trên sàn ở giữa hồ bán nguyệt. Tham gia đóng các quân cờ, tướng nam phải là các cụ ông chức sắc, tướng nữ phải là vợ các quan viên trở lên, gia đình song toàn. Các tướng này phải là người hai thôn Thượng và Nội từ 50 tuổi trở lên, có tướng mạo đẹp. Quân cờ là trai gái người làng chưa có vợ có chồng, dáng thanh tú. Trò đấu vật trong hội chùa được tổ chức trên bãi cỏ quanh chùa, thường thu hút các hói vật Quảng Bị, Trúc Sơn, Đồng Lư… Rối nước tổ chức dưới hồ, do người thuộc phường rối nước các nơi được đón về biểu diễn.Lễ hội chùa Trăm Gian là lễ hội truyền thống của cư dân nông nghiệp lúa nước, nhằm giáo dục tinh thần yêu nước và đoàn kết, rèn luyện tinh thần thượng võ và thi tài khéo léo. Những truyền thống tốt đẹp ấy vẫn được gìn giữ và truyền lại cho những thế hệ mai sau. Chùa đã được công nhận là Di tích Lịch sử cấp quốc gia. 


Tới thăm chùa Trăm Gian, du khách tour du xuân 2018 thỏa sức ghi lại những hình ảnh vui chơi của mình dưới nền ảnh phủ một màu xanh của thông, của sấu, của ngói đỏ đã bạc màu vì năm tháng. Không gian tĩnh mịch, những sư thầy lặng lẽ dọn chùa và những “mục tiểu linh đồng” tóc để chỏm khiến bạn cảm thấy lưu luyến khi chuẩn bị rời xa chốn này. Những cây thông cổ thụ cao vút, những mái chùa cong cong hàm rồng, hương sen thơm ngát sẽ còn theo bạn cho đến suốt quãng đường trở về …